Tên di sản : Đình Phi Bình

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Di tích kiến trúc nghệ thuật

Sô quyết định : 180/QĐ-UBND

Giới thiệu

Cảnh quan chung:

Đình làng Phi Bình là một ngôi đình cổ, tọa lạc hướng Nam trên khu đất rộng, thoáng giữa khu vực cư trú của dân làng. Theo trí nhớ của các cụ cao tuổi tại địa phương ngày xưa đình gồm có sân trước đến nhà tiền đình 5 gian, đến sân sau, trung đình 5 gian và hậu cung. Nhưng ngôi tiền đình đã bị phá hủy vào khoảng năm 1976 để làm các công trình phúc lợi khác của xã, đất nhà tiền đình đã chia cho dân ở, ngày nay chỉ còn trung đình và hậu cung mới được tôn tạo lại. Kiến trúc của ngôi đình nằm trong một khuôn viên khép kín bởi hệ thống tường rào bao quanh.

Quy mô cấu trúc:

Toàn bộ không gian đình hiện tại gồm có các hạng mục: Cổng, Sân, và Đình chính nằm trên mặt bằng xung quanh xây tường rào bảo vệ. Từ ngoài vào trong gồm các công trình sau:

Cổng đình: Theo các cụ cao niên trong làng cho biết trước kia cổng đình hướng Nam, gồm cửa chính ở giữa và hai cửa phụ hai bên, mái lợp ngói mũi hài, cánh cửa cổng bằng gỗ có bánh xe lăn đóng mở dễ dàng. Hiện nay vị trí cổng cũ đã chia cho dân ở, cổng đình ngày nay được mở về hướng Đông, cổng làm bằng sắt hình hộp chữ nhật có kích thước chiều cao 2m, rộng 2,2m được gắn lắp vào hai cột nanh có kích thước cao 2,2m vuông 0,3m, được xây khá chắc chắn và bền vững.

Sân đình: có chiều dài 20m chiều rộng 4,5m được lát gạch đất nung kích thước 30 x 30cm.

Đình chính: hiện nay được cấu trúc theo hình chữ Đinh (J) gồm nhà Trung đường và Hậu cung.

Nhà Trung đường có cấu trúc 5 gian, 2 dĩ 6 vì kèo gỗ, theo kiểu tường hồi bít đốc không có cửa, nền đình cao hơn mặt sân 20cm, được lát gạch đất nung 40cm x 40cm; mái lợp ngói vẩy, bờ nóc gian giữa có đắp đôi rồng chầu mặt nhật, hai đầu của bờ nóc trang trí hạc long thủy quoái.

Kích thước của đình có chiều dài là 15,05m trong đó: Tường đốc phía tây dầy 0,3m; Dẫy chiều dài 0,2m; Gian thứ nhất có chiều dài 2,5m; Gian thứ hai có chiều dài 2,55m; Gian thứ 3 có chiều dài 3,8m; Gian thứ tư có chiều dài 2,5m;

Gian thứ năm có chiều dài 2,5m; Dày 0,45m; Tường đốc dày 0,25m.

Chiều rộng đình là 6,76m trong đó: Hiên dài 1,05m, cột quân đến cột cái trước chiều dài 1,3m, từ cột cái trước đến cột cái sau chiều dài 2,5m, từ cột cái sau đến cột quân sau chiều dài 1,32m, từ cột quân sau đến tường hậu chiều dài 0,34m, tường hậu dầy 0,25m.

Mỗi bộ vì có 4 hàng cột, tổng số cột của đình gồm có 24 cây, trong đó 12 cột cái và 12 cột quân, các cột trong ngôi đình này có dáng thon, ở giữa phình to, thu nhỏ phần chân và thon dần về phần ngọn; nói cách khác “thượng thu hạ thách”, cột cái có chiều cao 4,04m, đường kính thân 0,38m; cột con có chiều cao 2,83m, đường kính 0,28m. Liên kết các bộ vì kèo với nhau bằng các xà thượng và xà hạ, có tỷ lệ tương xứng với hình dáng của cột là các xã, câu đầu, có sự hài hoà tạo nên độ giằng vững chãi cho công trình. Tất cả các cột đều được đứng trên đá tảng vuông, mặt gương tảng tròn có nhiệm vụ chống đỡ toàn bộ trọng lượng của bộ khung gỗ và phần mái ngói.

Các con rường, kẻ, bẩy của các bộ vì điều ngậm ván lá dong làm nhiệm vụ đều chỉnh độ phẳng và độ dốc của mái đình. Toàn bộ hoành tải rui mè đều bằng gỗ.

Đình Phi Bình cho đến nay đã qua nhiều lần tu sửa, cho nên trang trí của các bộ vì cũng đã bị thay đổi nhiều, qua các lần sửa chữa, các bộ vì tuy khác nhau về hình thức và kiểu dáng nhưng phần chạm trổ lại hài hòa với nhau hổ trợ nhau tạo nên một không gian kiến trúc hoàn chỉnh trong ngôi đình.

Kết cấu các bộ vì của đình như sau:

Bộ vì thứ nhất và thứ 6 đối xứng nhau và có kết cấu theo kiểu chồng rường kẻ bẩy: bộ vì kèo liên kết chính bắt đầu từ hai cột cái trước và sau, hai đầu cột này được bổ mộng câu đầu ăn vào cột cái (câu đầu có nhiệm vụ như một quá giang), thân câu đầu được xoi gờ chỉ dọc thân tạo hình sống dừa, hai bên có gờ chi chạy song song, trên câu đầu có hai bát đấu đỡ hai trụ, trên thân của mỗi trụ có một con rường ngắn mỗi con rường đều được tì lên bát đấu vuông, thân con rường được tạo đầu rồng cách điệu bao quanh là hoa văn đạo mác nét chạm nổi thanh thoát tạo vẻ uy nghi bề thế, đầu trên của hai trụ có bát đấu để rường bụng lợn, là một con rường dài nằm trên đầu hai trụ đứng, có nhiệm vụ đỡ cả mái trước, mái sau, trên lưng con rường có hai bát đấu đỡ bức ván mê, chính giữa bức ván mê được chạm mặt hổ phù, phần trán của mặt hổ phù được tạo hình đấu rế. Trên cùng là thượng, thượng lương là khoảng cách ở giữa thu lại tạo nên đỉnh của mái. Liên kết hai nửa trên của thân cột cái trước và cột cái sau bằng xà lòng; xà ngang ở vị trí thẳng với xà lòng gắn kết thân cột cái với đầu cột quân, trên lưng xà ngang đỡ kẻ ngồi là khoảng liên kết từ cột cái trước đến cột quân trước, trên thân kẻ được tạo gờ chỉ, phần nghé kẻ lồng qua thân cột cái đỡ câu đầu, đầu trên kẻ lồng qua thân cột quân trước đỡ xà ngang, phía sau tương xứng với mái trước theo độ dốc của mái từ cột cái xuống cột quân là kẻ ngồitrên xà ngang, xà ngang liên kết thân cột cái sau với đầu cột quân sau đỡ kẻ ngồi là đầu nghé của bẩy sau được lồng qua thân của cột quân sau, phía dưới cuối bẩy là tường hậu.

Bộ vì thứ sáu khác vì thứ nhất ở phần trên lưng câu đầu là hai bát đấu đỡ hai trụ mỗi trụ đều có 2 con rường, phía trong lòng của hai trụ được nối với nhau vào vị trí thẳng với hai con rường dưới giống như một xà kép, trên lưng hai con trường này có hai bát đầu dỡ con rường trên, đầu hai trụ có hai bát đấu đỡ rường bụng lợn.

Bộ vì thứ 2 và thứ 5 đăng đối nhau đều có kết cấu theo kiểu chồng rường kẻ bẩy, bộ vì này không có xà lòng, đều khác biệt so với vì thứ nhất là lưng của rường bụng lợn có hai bát đấu đỡ con rường trên, lưng con rường trên có bát đấu đỡ guốc thượng lương. Vì thứ 5 khác trên thân của mỗi trụ đều gắn 2 con rường định của 2 trụ có đấu bát đỡ rường bụng lợn, trên cùng là guốc đỡ thượng lương.

Bộ vì thứ 3 và thứ 4 là hai vì chính của đình được kết cấu theo kiểu chồng rường kẻ bẩy, nhưng phần trên của bẩy lồng qua cột quân đỡ xà ngang là nghé kẻ, nghé kẻ được chạm nổi hình con nghê trong tư thế như đang tung chân tạo vẻ tôn nghiêm cho công trình, riêng b���c ván dong trên lưng của kẻ hiên mặt trong (gian chính) đối với vì 4 được chạm nổi Long và Phượng thế chầu vào xen lẫn vào các khoảng trống là hoa văn vân mây đao mác và hoa lá cách điệu nét chạm rõ sắc nét, đề tài trang trí trên kẻ hiện là rồng ẩn trong mây, xen kẽ là hoa văn đao mác và vân mây sóng nước, điểm khác biệt so với các bộ vì khác là trên đầu của cột quân sau có một bầy chéo đây là dấu vết của phần hậu cung cũ. Bộ vì thứ bốn cũng là bộ vì chính khác bộ vì thứ 3 là trên thân của mỗi trụ đều gắn 2 con rường đỉnh của 2 trụ có đấu bát đỡ rường bụng lợn, trên cùng là guốc đỡ thượng lương. Điểm khác biệt duy nhất là xà hạ dọc nối hai cột quân sau của vì 3 và vì 4 được chạm lộng, bong kênh hình tượng “Lưỡng long chầu nhật” cho ta thấy được cái tinh xảo của mảng chạm, đường nét mềm mại, hình rồng vờn mây, thân rồng uốn lượn ẩn rất tinh tế trong mây, thể hiện rõ trí tuệ sáng tạo của người nghệ nhân dân gian, đồng thời phản ánh rõ nét những yếu tố kiến trúc thuần Việt.

Đình Phi Bình quá trình tồn tại cùng với sự phát triển của làng xã, thời gian tồn tại đã lâu qua nhiều lần sửa chữa cho nên tuy toàn bộ kết cấu của các bộ vì không giống nhau về kiểu dáng nhưng nhìn chung các bộ vì đều hài hòa với nhau tạo nên kiến trúc của ngôi đình. Nhìn tổng thể ngôi đình vẫn là một công trình hoàn chỉnh đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt văn hóa của cộng đồng làng xã từ xưa còn lại cho đến hôm nay.

Nghệ thuật chạm khắc:

Đình Phi Bình có những nét đặc trưng về điêu khắc gỗ, với bàn tay tài hoa, người nghệ nhân sử dụng các đề tài trang trí Tứ linh, là các con vật thiêng gần với đời sống tín ngưỡng của người dân, các chi tiết trên các cấu kiện gỗ của ngôi đình, tạo nên nét đẹp truyền thống về nghệ thuật điêu khắc của người Việt.

Nghệ thuật chạm khắc ở đình chủ yếu tập trung ở 6 vì kèo, kẻ hiên, các đầu con rường, đặc biệt ở phần chóp nóc hai vì 1 và vì 6 có bức ván mê chạm khắc mặt hổ phù, nét đục sâu, tạo khối nổi thể hiện tính mềm mại, uyển chuyển.

Tất cả đầu các đầu con rường đỡ hoành, trên các bộ vì đều được chạm nổi hình đầu rồng cách điệu thân con rường được coi hình sống dừa, hai bên cạnh có ở chi song song, các con rường bụng lợn cũng được xoi gờ chỉ dọc giữa thân tạo hình sống dừa hai bên có gờ chỉ chạy song song, Đặc biệt ở vì thứ nhất và vì 6 có hoa văn hình cánh sen đỡ guốc thượng lương. Tất cả các xà nách cũng được xoi giống như các con rường, riêng phần đầu phía cột quân chạm nổi hoa văn vân mây đao mác. Các kẻ hiện được chạm trổ hoa văn đao mác và vân mây cách điệu, nét chạm nổi thanh thoát và đều nằm trong các khuông tranh.

Các mảng chạm lộng, chạm bong với nhiều sáng tạo về khối, hình nét, làm cho các hệ thống khung gỗ của đình trở nên lộng lẫy và sinh động đặc biệt là bức ván lá dong ở 3 và vì 4 được chạm nổi Long, Ly, Quy, Phượng, ẩn trong vân mây đao mác tạo vể linh thiêng huyền bí, cũng trên hai bộ vì này ở vị trí ngé kẻ đỡ xà ngang trước chạm nổi bong kênh hình con nghê, thế chầu, các mảng trạm khắc trên câu đầu, xà nách, bẩy hiên và hai đỉnh nóc của vì 1 và vì 6.

Các mảng chạm khắc với nhiều đề tài phản ánh tâm thức nông nghiệp vừa toát lên được ý tưởng của nghệ nhân xưa. Các vì chia gian khác nhau, nét chạm cũng khác nhau nhưng lại đăng đối nhau tạo nên một không gian huyền bí của kiến trúc Việt. Thông qua hệ thống chạm khắc trên đình Phi Bình, các mảng chạm khắc ở các bẩy hiện đều rất phong phú, sinh động ghi nhận tài năng, tình cảm của nghệ nhân dân gian đương thời. Quan sát thực tế về các mảng điêu khắc, chúng ta thấy đình Phi Bình mang phong cách kiến trúc thuần Việt do hiệp thợ có kinh nghiệm thực hiện với kiểu thức phong cách kiến trúc đầu thời Nguyễn như lạc khoản trên thượng lương đã ghi.

Nhà Hậu cung:

Hậu cung được tôn tạo lại năm 2014 chiều dài 2 gian là 4,5m, rộng 3,6m, chiều cao từ nền lên trênh 2,7m, được kết cấu kiến trúc đơn giản kèo suốt gách tránh gồm có 3 vì giống nhau về kiểu dáng kết cấu, hai vì bên được gác trực tiếp lên tường, vì giữa được gác tránh, trên trềnh dỡ hai trụ trốn, 2 trụ chống đỡ trực tiếp bộ vì kèo, hoành tải rui mè bằng gỗ.

Hệ thống thờ tự Nhà Tiền đình có một hương án ở gian thứ 3 là gian chính của đình, đây là hương án thờ Hội đồng các quan trên hương án có bát hương, mâm bồng, đài nước và các đồ tế lễ khác.

Hương ở hậu cung là hương án thờ thần hoàng bản thổ trên hương án có bát hương, lư hương đồng, mâm bồng đồng và các đồ tế lễ khác.

B�� thờ là nơi trang trọng nhất ở hậu cung gồm có hai bệ thờ chính đây chính là nơi thờ thành hoàng làng, bệ dưới có bát hương và các đồ tế lễ, bệ trên có long ngai và bài vị của thần.

Ngoài ra trong đình hiện nay còn tồn tại một hương án thờ Bác Hồ ở gian bên trên hương án có bát hương và các đồ tế lễ khác. Bên cạnh đó còn có một ban thờ các anh hùng liệt sĩ chống Pháp và chống Mỹ của làng.

Hình ảnh Đình Phi Bình

Đình Phi Bình

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật